Học tiếng Hàn qua truyện cổ tích Hàn Quốc - Vừa học được cách hành văn và thông qua các câu truyện cổ tích sẽ hiểu thêm một phần nào đó về đất nước đó. Câu chuyên hôm nay "설문대 할망 - Truyền thuyết đào Jeju". Các bạn đọc 1 lần qua bản tiếng Hàn, kéo xuống bên dưới sẽ có bản dịch Hàn - Việt.
동화 제목: 설문대 할망
까마득히 오랜 엣날에 있었던 일이에요.
설문대 할망이라는 할머니가 푸른 물이 넘실대는 남해바다에 나타났어요.
설문대 할망의 덩치는 어마어마하게 컸어요.
산봉우리보다 큰 키에 한 속으로 바위를 번쩍번쩍 들 만큼 힘도 셌지요.
“가도가도 킅없는 바다뿐이로군.”
쉴 곳을 찾던설문대 할망이 말했어요.
“그래, 여기에 섬을 말들어야겠다.”
그 날부터설문대 할망은 넓은 치마폭에 흙을 가득 담아 날랐어요. 어느덧 남해 바다에 크고 넓은 섬 제주도가 만들어졌어요.
할망은 날라 온 흙으로 한라산도 만들었어요. 그런데 산이 나무 넢아서 봉우리 를 꺾어 던졌지요. 그것이 똑 떨어지면서 산방산이 되었고, 치마에서 흘러내린 흙부스러기들이 수많은 오름이 되었어요.
설문대 할망은 한라산을 베개 삼아 누워 쉴 수 있게 되었지요.
그런데 산더미 같은 흙을 치마에 담아 나르다 보니 치마가 너덜너덜해졌어요. 속치도 입지 않아 바다바람에 몸이 부들부들 떨렸지요.
설문대 할망은 저주도 사람들에게 명주 100동 (1동은 50필)으로 속치마를 만들어 달라고 했지요.
“나한테 명주 속치마를 만들어 주면 육지까지 다리를 놓아 주지.”
설문대 할망은 사람들과 약속했지요.
설문대 할망은 열심히 돌을 날라 다리를 놓고, 사람들을 부지런히 할망이 입을 속치마를 지었어요.
그런데 제주도 사람들이 모들 모은 명주는 99동밖에 되질않았어요.
“큰일이네. 이 일을 어쩌면 좋아요.”
제주도 사람들은 다리가 놓이기를 간절히 바랐어요.
하지만 설문대 할망은 일손을 놓고 말했지요.
“명주 100동으로 만든 속치마를 꼭 입고 싶었는데...”
설문대 할망은 실망한 얼굴로 돌아셨어요.
그래서 제주도는 섬이 되었고 조천읍 조천리에 있는 바위섬은 설문대 할망 다리를 놓고 흔적이라고 해요.
혼자 외롭게 살던 설문대 할망은 우연히 덩치가 큰 하르방을 만나게 되어 그 후로는 함게 살게 되었답니다.
Truyền thuyết đảo Jeju
까마득히 오랜 엣날에 있었던 일이에요. 설문대 할망이라는 할머니가 푸른 물이 넘실대는 남해바다에 나타났어요. 설문대 할망의 덩치는 어마어마하게 컸어요. 산봉우리보다 큰 키에 한 속으로 바위를 번쩍번쩍 들 만큼 힘도 셌지요.
Việc này đã xảy ra cách đây rất lâu rồi, đến mức không ai còn nhớ đó là từ ngày tháng năm nào nữa.
Thời đó có một bà cụ khổng lồ tên là Seolmundae, không ai biết bà từ đâu tới nhưng có người nói rằng lần đầu tiên nhìn thấy bà là khi bà đột ngột trồi lên từ làn nước xanh biếc của biển Nam Hải. Bà có cơ thể to lớn vĩ đại và một sức khoẻ phi thường đến mức có thể dễ dàng di chuyển cả một quả núi cao trong chớp mắt chỉ bằng một tay như là chúng ta cầm một cục đá nhỏ vậy.
“가도가도 킅없는 바다뿐이로군.” 쉴 곳을 찾던설문대 할망이 말했어요.
Một ngày khi bà đi dạo chơi trên biển, bà thốt lên. “Đi mãi đi mãi mà chẳng có điểm dừng, chỗ nào cũng toàn là biển là biển!”
“그래, 여기에 섬을 말들어야겠다.”
Lúc sau, khi tìm thấy một chỗ để có thể ngồi nghỉ chân, bà nghĩ: “Được, ở chỗ này mình sẽ làm một hòn đảo để mọi người có thể trú chân.”
그 날부터설문대 할망은 넓은 치마폭에 흙을 가득 담아 날랐어요. 어느덧 남해 바다에 크고 넓은 섬 제주도가 만들어졌어요.
Từ lúc đó trở đi, mỗi ngày bà đều đi vào đất liền, xúc đất đá và dùng chính chiếc váy mà mình đang mặc để đựng chúng rồi mang ra biển. Khi đi ra đến điểm dừng chân hôm nọ tại biển Nam Hải, bà đổ đất đá từ trong vạt váy ra và làm thành một hòn đảo vừa to vừa rộng, đó chính là đảo Jeju như ngày nay.
할망은 날라 온 흙으로 한라산도 만들었어요. 그런데 산이 나무 넢아서 봉우리 를 꺾어 던졌지요. 그것이 똑 떨어지면서 산방산이 되었고, 치마에서 흘러내린 흙부스러기들이 수많은 오름이 되었어요.
Số đất đá còn thừa sau khi xây dựng đảo Jeju, bà tập trung chúng lại ở chính giữa và chất thành một đống và làm thành núi Hallasan, ngọn núi cao nhất của Triều Tiên. Tuy nhiên, sau khi hoàn tất, bà thấy ngọn núi này lại quá cao, nên đã nhắt cái chóp đi và ném ra phía biển. Chỗ đất thừa bị ném đi đó chính là núi Sanbangsan. Ngoài ra khi đựng đất để xây dựng đảo bằng vạt váy của mình, rất nhiều đất đá đã lọt ra từ những lỗ thủng trên váy của bà rơi vương vãi khắp đảo, tạo nên vô số những ngọn đồi lớn nhỏ rải rác khắp nơi trên đảo Jeju.
설문대 할망은 한라산을 베개 삼아 누워 쉴 수 있게 되었지요. 그런데 산더미 같은 흙을 치마에 담아 나르다 보니 치마가 너덜너덜해졌어요. 속치도 입지 않아 바다바람에 몸이 부들부들 떨렸지요.
Sau khi công việc xong xuôi, bà Seolmundae ngồi lên đỉnh núi Hallansan nghỉ ngơi, điều đó làm cho đỉnh núi này không có chóp nhọn như những ngọn núi khác, mà bị võng ở giữa. Tuy nhiên, việc đựng vô số đất đá vào vạt váy của mình đã khiến chiếc váy của bà bị vô số những vết thủng lỗ chỗ. Điều này khiến cho dù bà mặc váy nhưng gió biễn vẫn lùa qua những chỗ thủng lùa vào người bà, khiến bà lạnh rùng cả mình.
설문대 할망은 저주도 사람들에게 명주 100동 (1동은 50필)으로 속치마를 만들어 달라고 했지요.
Bà Seolmundae gọi tất cả những người dân sống trên đảo Jeju lại và cầu xin họ hãy làm cho mình một chiếc váy mới từ số vải được mua từ 100 đồng tiền (1 đồng mua được khoảng 50 cuộn vải).
“나한테 명주 속치마를 만들어 주면 육지까지 다리를 놓아 주지.” 설문대 할망은 사람들과 약속했지요. 설문대 할망은 열심히 돌을 날라 다리를 놓고, 사람들을 부지런히 할망이 입을 속치마를 지었어요.
“Nếu mọi người làm cho tôi một chiếc váy mới, tôi sẽ xây cho mọi người một chiếc cầu nối liền đảo Jeju với đất liền.” Điều đó sẽ giúp người dân dễ dàng di chuyển vào đất liền, nên mọi người liền đồng ý với giao ước của bà Seolmundae. Bà Seolmundae ngay lập tức bắt tay vào công việc, thu gom đất đá để bắt đầu xây dựng cây cầu, còn người dân trên đảo tập trung lại cùng nhau làm việc hết sức chăm chỉ để may chiếc váy mới cho bà.
그런데 제주도 사람들이 모들 모은 명주는 99동밖에 되질않았어요. “큰일이네. 이 일을 어쩌면 좋아요.”
Tuy nhiên, cho dù người dân trên đảo đã tập hợp hết tất cả số vải mà họ có, cũng thậm chí chưa đủ được đến xấp xỉ khoảng 99 đồng. Họ bàn luận với nhau. “Đây thật sự một việc rất lớn lao, chúng ta cố gắng làm đến mức này, cũng đã là tốt lắm rồi.
제주도 사람들은 다리가 놓이기를 간절히 바랐어요. 하지만 설문대 할망은 일손을 놓고 말했지요. “명주 100동으로 만든 속치마를 꼭 입고 싶었는데...”
Họ cùng nhau đến gặp bà Seolmundae và thật thà thưa với bà công việc họ đã làm, hi vọng rằng bà sẽ vẫn tiếp tục đồng ý việc xây dựng cây cầu. Tuy nhiên, bà lập tức bỏ dở công việc lại và nói: “Tôi nhất định muốn mặc chiếc váy được làm từ số vải tương đương với 100 đồng tiền.”
설문대 할망은 실망한 얼굴로 돌아셨어요. 그래서 제주도는 섬이 되었고 조천읍 조천리에 있는 바위섬은 설문대 할망 다리를 놓고 흔적이라고 해요.
Trên mặt bà lộ rõ vẻ thất vọng và dừng công việc xây cầu lại. Do đó, Jeju chỉ là một hòn đảo giữa biển khơi và không có con đường nào nối vào đất liền. Và tại xã Jochon, tỉnh Jochon trên đảo Jeju có một đảo đá nằm bên rìa rờ biển, đó chính là dấu tích của đống đất đá bà Seolmundae đang thu gom lại để chuẩn bị xây cầu nối vào đất liền.
혼자 외롭게 살던 설문대 할망은 우연히 덩치가 큰 하르방을 만나게 되어 그 후로는 함게 살게 되었답니다.
Còn bà lão Seolmundae sau một thời gian sống một mình buồn chán đã tình cờ gặp được ông thần khổng lồ Hareubang, họ quyết định cùng nhau chung sống đến đầu bạc răng nong.
Rated 4.6/5 based on 28 votes